So Khoa hoc & Cong nghe Dak Nong

Sat11232024

Tìm 'đường' thương mại hóa cho sản phẩm nghiên cứu

Đánh giá:  / 0
DởHay 

    Nếu như ở các nước tiên tiến, hoạt động nghiên cứu là kim chỉ nam, giảng viên, nhà khoa học lấy hoạt động nghiên cứu làm nguồn thu chủ yếu. Ngược lại ở Việt Nam, các Trường đại học, việc đào tạo vẫn là nhiệm vụ hàng đầu. Trong những năm gần đây, chủ trương áp dụng cơ chế tự chủ của Chính phủ đối với các trường đã thúc đẩy các cơ sở giáo dục bậc cao này tiệm cận với cơ chế thị trường. Các trường phải quan tâm đến việc tạo được các sản phẩm, dịch vụ tốt cho thị trường từ nguồn lực sẵn có. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều rào cản về chính sách, nhận thức, thói quen, kiến thức liên quan đến bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ… 

    Riêng tại TP.Hồ Chí Minh, hiện tại việc sáng chế được thương mại hoá tương đối khả quan nhưng chỉ mới tập trung một số trường như: ĐH Bách khoa (ĐHQG TP.HCM), ĐH Nông lâm TP.HCM, ĐH Công nghiệp TP.HCM… và sức lan toả thương mại hoá cũng chưa đạt kết quả cao. Do đó Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng cần có giải pháp để đưa sản phẩm nghiên cứu đi thương mại hóa, tạo động lực cho người nghiên cứu tiếp tục phát huy năng lực, tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị, đóng góp vào sự phát triển chung cho xã hội.

    Vấn đề này được các chuyên gia, nhà khoa học thảo luận tại Hội thảo Thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học, bài học từ các nước, hiện trạng và đề xuất mô hình thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học diễn ra chiều ngày 20/7. Hội thảo do Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ (Saigon Innovation Hub - SIHUB thuộc Sở KH&CN TP.HCM) tổ chức với sự tham gia của nhiều chuyên gia trong nước và quốc tế.

    Chia sẻ tại hội thảo, ThS. Nguyễn Minh Huyền Trang, Phó giám đốc phụ trách Trung tâm Sở hữu trí tuệ và Chuyển giao công nghệ - Đại học Quốc gia TP.HCM, đã chỉ ra rằng, dù số đơn đăng ký sáng chế tại Việt Nam đã tăng gần gấp đôi trong giai đoạn từ năm 2007 (2.860 đơn) đến 2017 (5.382 đơn). Tuy nhiên, có đến gần 90% chủ đơn là các tổ chức, cá nhân nước ngoài, trong khi chủ đơn Việt Nam chỉ chiếm con số rất khiêm tốn - trên dưới 10%

    Năm 2017 là năm Việt Nam có nhiều bằng độc quyền sáng chế được cấp nhiều nhất - 109 bằng (chiếm chưa đến 7% số bằng được cấp trong năm). Trong khi đó, số bằng độc quyền sáng chế cấp cho các chủ thể nước ngoài là 1.636 (chiếm đến hơn 93% số bằng được cấp trong năm).

    Nếu so sánh với một số nước trong khu vực Asean+3 thì chúng ta đứng cuối và cách biệt khá xa với Thái Lan, Singapore. Theo tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới, năm 2017, tổng số đơn sáng chế và giải pháp hữu ích của Thái Lan, Malaysia và Việt Nam lần lượt là 3.133, 1.439 và 669.

    "Hiện vẫn còn khoảng 10% doanh nghiệp Việt Nam sử dụng công nghệ từ những năm 1970, 30% sử dụng công nghệ từ những năm 1980 và 50% sử dụng công nghệ từ những năm 1990", Ths Huyền Trang nói.

    Về phía trường đại học thì việc triển khai cơ chế bảo hộ, quản lý, khai thác tài sản trí tuệ trong các viện, trường còn nhiều bấp cập, chưa đạt yêu cầu. Nhiều trường chưa thành lập bộ phận quản trị tài sản trí tuệ hoặc có nhưng hoạt động thiếu hiệu quả. Trường đại học cũng thiếu những công trình, sản phẩm khoa học công nghệ có tính ứng dụng cao. Đặc biệt, nhà khoa học, nhà nghiên cứu có tâm lý nản lòng bởi các quy định.

    ThS Huyền Trang nhận định rằng, quá trình chuyển giao công nghệ giữa đại học - doanh nghiệp còn nhiều bất cập và là vấn đề rất cấp thiết trong phát triển nghiên cứu khoa học.

Ông Huỳnh Kim Tước (Giám đốc Trung tâm Ứng dụng tiến bộ Khoa học và Công nghệ TP.HCM - Saigon Innovation Hub)

ký kết hợp tác triển khai hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo với nhiều đối tác trong và ngoài nước

    Chia sẻ bài học từ các nước, ông Huỳnh Kim Tước, Giám đốc điều hành SIHUB, đã đề cập đến một số mô hình tiêu biểu như: Mô hình trung tâm chuyển giao công nghệ; Mô hình vườn ươm doanh nghiệp; Mô hình công ty đại diện; Mô hình công ty cổ phần.

    Theo ông Huỳnh Kim Tước, mô hình công ty đại diện chuyển giao công nghệ của trường đại học có thể thay thế hoàn toàn vai trò của trung tâm chuyển giao công nghệ tại một số trường đại học. Trong trường hợp trường đại học đã có mô hình trung tâm chuyển giao và vườn ươm công nghệ thì vai trò chuyển giao của công ty tập trung ở khâu thương mại hóa kết quả nghiên cứu.

    Tuy nhiên, theo ông Tước, vấn đề hiện nay của các trường đó là luật pháp Việt Nam vẫn chưa cho phép các trường đại học được đầu tư tài chính. Trên thế giới, phần đầu tư tài chính mới là phần chính. Tức là, tài sản của nhà trường của các nguồn khi đầu tư xong thì tạo ra tài sản. Tài sản đó được bàn giao cho công ty quản lý. Mô hình công ty này cũng có thể đảm nhận vai trò của vườm ươm công nghệ trong việc hỗ trợ thành lập các start-up và spin-off.

    Tại Hội thảo, Saigon Innovation Hub cũng đã ký kết hợp tác triển khai hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo với nhiều đối tác như Tổ chức Ươm tạo doanh nghiệp Hàn Quốc, Sở Khoa học và Công nghệ Bình Định, Trung tâm Sở hữu trí tuệ và Chuyển giao công nghệ, Trung tâm Thông tin Ứng dụng khoa học và công nghệ Bình Định, Trung tâm phân tích chất lượng Bình Định… 

Nguồn: http://www.ninhthuan.gov.vn